Dẫu cho đóng cửa chùa, khóa các phòng thất, nhưng nếu không có ý thức tự giác thì thế giới mạng vẫn mở toang 24/24 giờ, rất dễ làm tán loạn, đánh mất sự định tâm để dành năng lượng cho sự tịnh tu – Ảnh minh họa
Giới luật là công truyền hay bí truyền?
Với những câu hỏi, thắc mắc được cho là liên quan tới giới luật của người xuất gia như vậy, khi được đặt ra từ người cư sĩ, hoặc các vị nhỏ đang tập sự xuất gia, thì thường bị cho là… “không phải phép”, rằng “người đời” hay người chưa thọ Đại giới (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni) không được quan tâm tới giới luật của các vị xuất gia.
Cá nhân tôi cũng từng được nghe đâu đó lời có ý răn đe như thế, và mặc định trong lòng đó là chân lý, điều được chư Tổ đúc kết và truyền lại. Quan niệm này cũng đồng nghĩa với việc cho rằng chỉ có người xuất gia mới được biết giới luật của người xuất gia, giới luật của người xuất gia là… bí tạng, chỉ dành cho người đã thọ giới nào đó mới được tham khảo, được biết.
Trong một bài viết hai mươi năm trước, HT.Thích Phước Sơn, một bậc giáo phẩm uyên thâm Phật học, đã nêu một chi tiết được đề cập trong Luật Sa-di, một trong những điều cần làm trước khi quyết định thọ nhận giới pháp, các Sa-di vì tha thiết cầu học, có thiện chí tiến tu “Nhược nhạo quảng lãm, tự đương duyệt Luật tạng toàn thư” (nếu muốn hiểu biết rộng thì nên xem toàn bộ Luật tạng). Hòa thượng khẳng định, giới luật không phải là bí tạng thuộc đặc quyền của ai cả. Đó cũng là tinh thần chung của Phật pháp.
“Giả sử một hội đoàn nào đó gọi chúng ta gia nhập, rồi mới cho biết nội quy và điều lệ, thì liệu chúng ta có yên tâm gia nhập hay nghi ngờ hội đoàn đó có điều gì mờ ám, bất chính? Theo lẽ thường, người có trí mỗi khi muốn tham dự một tổ chức nào chắc chắn phải tìm hiểu tường tận điều lệ của tổ chức ấy rồi mới tham gia. Đó là một việc làm hợp lý và có tinh thần khoa học”, Hòa thượng viết.
Trong những lần đi công việc tại Thái Lan, tôi được những vị sư pháp lữ hướng dẫn những quy ước trong giao tiếp đối với người tại gia cư sĩ theo văn hóa Phật giáo Nam truyền tại đây. Qua trò chuyện, được biết giới cảnh sát ở đất nước này dường như có sự hiểu biết về giới luật của người xuất gia, bởi hầu hết họ vốn là những người xuất gia, hoặc có thời gian sống đời sống xuất gia ngắn hạn. Do đó, họ có nhận định về những hành vi vượt ngoài chuẩn mực của người xuất gia nơi công cộng, và có cách giải quyết phù hợp, tránh việc làm tổn thương tín tâm của tín đồ đối với biểu tượng Tăng bảo.
Vậy, việc tín đồ được phổ biến, nắm rõ giới luật của người xuất gia, là tích cực. Với sự hiểu biết, họ có thể có những nhắc nhở tế nhị, nhận định được đâu là vị Tăng, Ni có hành xử chuẩn mực, đâu là hiện tượng mạo danh, dễ dàng phân biệt việc lạm dụng hình thức người xuất gia có làm việc bất thiện, chẳng hạn lợi dụng việc bán nhang để lừa gạt, giả dạng tu sĩ đến nhà bói toán để chiếm đoạt tài sản, khất thực phi pháp… đã và đang diễn ra, làm nhức nhối cộng đồng Phật tử, dư luận lên tiếng nhiều lần, nhưng vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có giải pháp căn cơ dứt điểm.
Đang an cư, sao lại xuất hiện trên mạng xã hội hằng ngày?
Trong bài trả lời phỏng vấn báo Giác Ngộ gần đây được đăng trên tuần báo và phiên bản điện tử Giác Ngộ online, HT.Thích Thiện Pháp, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS, Trưởng ban Tăng sự Trung ương GHPGVN có nhận định về mùa an cư kiết hạ, một hoạt động đặc thù của cộng đồng người xuất gia là: “cần tránh xa các hoạt động thế tục”.
Tuy Hòa thượng không nêu những gì được gọi là hoạt động thế tục, nhưng nội dung trả lời xác quyết rằng an cư kiết hạ là thời gian được chính Đức Phật chế định, bắt buộc các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, những người xuất gia phải dừng các hoạt động đi lại, kể cả việc hoằng pháp, để cùng ở một nơi, tập trung cho việc tu tập, học hành chỉnh đốn giới luật, rèn luyện thiền định và nâng cao trí tuệ.
Truyền thống này được xem như là tín hiệu cho sự hiện hữu của Tăng đoàn, không ai được vượt lên, bỏ qua.
Nhưng chỉ lướt qua mạng xã hội, chúng ta dễ dàng bắt gặp nhiều sự việc khác thường, đó là việc một số vị Tăng, Ni trong mùa an cư vẫn xuất hiện, tham gia mạng xã hội qua việc tương tác, đăng tải các thông tin, hình ảnh, cập nhật các hoạt động, trong đó có cả những chuyến du lịch đó đây.
Chưa có sự thống kê, nhưng không quá khó để thấy nhiều vị giáo phẩm thuộc hàng lãnh đạo, có vị đứng đầu Giáo hội cấp tỉnh, những vị giáo phẩm được nhiều người biết tới cũng sa vào tình trạng này.
Có vị giảng sư cho biết, trước đây các vị từng phản đối việc sử dụng mạng xã hội, nhưng nay đã thay đổi, vì nhận thức đó là phương tiện để hoằng pháp, đăng tải các bài thuyết giảng nhằm tiếp cận với cộng đồng một cách dễ dàng và thuận tiện. Ngoài việc tham gia có ý thức như vậy, mà số lượng rất ít, phần đông còn lại xem mạng xã hội như là nơi giãi bày cảm xúc buồn vui, suy nghĩ cá nhân, ghi lại “nhật ký” cuộc đời, hoạt động của mình, nhiều khi rất “đời”.
Theo đó, bên cạnh nội dung chuẩn mực mang tính chất chia sẻ thông tin hữu ích, có không ít những hình ảnh và thông tin chưa phù hợp, mang tính riêng tư được công khai khiến nhiều người dẫn lại, với lời bình phẩm có tính chất đàm tiếu.
Những thông tin mang tính du lịch giải trí nhưng lại thường xuyên được cập nhật trên một số tài khoản của một số vị giáo phẩm như thế khiến không ít người băn khoăn về tinh thần tôn trọng giới pháp, sự không đi đôi giữa nói và làm ở những người lẽ ra cần có sự gương mẫu, đặc biệt là những người có ảnh hưởng đối với người xuất gia trẻ tuổi, về tinh thần an cư kiết hạ “cùng quy tụ về một nơi chuyên tâm tu học, trau dồi giới, định, tuệ – tăng trưởng đạo lực”. Đó cũng là cơ sở cho sự đàm tiếu với những người có ác ý đối với Phật giáo.
Cổ xúy hay hạn chế?
Nghiện mạng xã hội và những tác động tiêu cực đến tâm lý, nhân cách của con người trong đời sống thực là vấn đề đã được giới nghiên cứu quan tâm. Nếu chúng ta xem mạng xã hội là kênh hoằng pháp thì mặc nhiên cũng thừa nhận tác động nhiều mặt của nó là có thực. Tâm lý con người thông thường có xu hướng tò mò trước những thông tin tiêu cực, người ta ví điều đó như dòng nước vốn chảy xuôi xuống nơi thấp trũng. Do đó, dẫu cho đóng cửa chùa, khóa các phòng thất, nhưng nếu không có ý thức tự giác thì thế giới mạng vẫn mở toang 24/24 giờ, rất dễ làm tán loạn, đánh mất sự định tâm để dành năng lượng cho sự tịnh tu.
Cổng chùa, tu viện, tịnh xá… có thời gian đóng và mở theo quy định thiền môn, nhưng với chiếc điện thoại thông minh, với chiếc máy tính bảng mà ai cũng có thể sở hữu, một thế giới sôi động với sự hỗn loạn thông tin có mặt bất cứ ngóc ngách nào.
Sự bùng nổ của mạng xã hội đã đem tới nhiều cơ hội thay đổi về phương tiện thông tin; sự kết nối, quảng bá trở nên dễ dàng, thực hiện bất cứ lúc nào và ở đâu; sự nổi tiếng và cả mất mát cũng không còn tuân thủ “quy trình” truyền thống; nhiều ngành kinh doanh mới xuất hiện; cái thật và giả lẫn lộn… trong khi nhận thức và niềm tin lại chông chênh, chính điều đó mà con người càng dễ bị cuốn trong dòng xoáy hỷ nộ ái ố, khiến cho cái nhìn bị tha hóa, hời hợt, dễ bị thông tin hỗn tạp thất thiệt tác động và dẫn dắt.
Từ năm ngoái, nước Pháp đã ban hành lệnh cấm học sinh sử dụng điện thoại di động ở trường học. Nhiều bậc cha mẹ ở các nước phát triển cắt mạng wifi và không dùng điện thoại khi ở nhà vì muốn làm gương cho con cái, khuyến khích con cái phát triển nhân cách ổn định, không bị nghiện mạng xã hội. Gần đây, một số bang ở Úc cũng áp dụng điều luật cấm học sinh dùng điện thoại di động trong nhà trường. Việc đó rất cần để suy ngẫm trong hoàn cảnh của chúng ta hiện nay. Liệu chúng ta có nên cổ xúy việc ứng dụng tiện ích của công nghệ thông tin một cách đại trà khi chưa cung cấp kỹ năng tối thiểu, đặc biệt là trong các đạo tràng an cư, các trường Phật học, tự viện có nuôi dưỡng người xuất gia trẻ tuổi?
Thực tế không phải ai cũng có đủ kỹ năng sử dụng các thành tựu của công nghệ thông tin để làm phương tiện hữu hiệu cho việc hoằng pháp, mà muốn vậy, phải có sự đào tạo một cách bài bản. Nếu sử dụng trong tinh thần chánh niệm, như nội dung của Điều thứ 7 trong Tuyên bố Hà Nam, được đúc kết ở Đại lễ Vesak LHQ 2019 vừa rồi, thì sẽ mang lạc lợi lạc; còn thiếu kỹ năng và nhận thức, thì sẽ không an toàn, chỉ là kênh để tùy tiện xả rác, làm rối loạn tâm thức chính mình, tổn hại cho uy tín đạo, hình ảnh thanh tịnh của Tăng đoàn, mất tín tâm đối với số đông mà thôi.
Ban Tăng sự T.Ư nên đánh giá tác động của mạng xã hội
Sử dụng các phương tiện là thành tựu của khoa học kỹ thuật như điện thoại, điện thoại thông minh, mạng xã hội… là những điều chưa được đề cập trong giới luật của người xuất gia. Tuy nhiên, trong tinh thần của giới luật, nội dung liên hệ thuộc phạm trù oai nghi tế hạnh, Ban Tăng sự Trung ương cũng như chư tôn túc giáo phẩm cần đánh giá những tác động, ảnh hưởng và thực tế đang diễn ra, tham khảo một số nơi, để theo đó xây dựng nên thanh quy bổ sung đối với người xuất gia; trong tự viện, đạo tràng tịnh tu, ai được sử dụng các phương tiện đó vì Phật sự, và ai không được sử dụng; chuẩn mực ứng xử ra sao; các mức độ nhắc nhở, nghiêm cấm cụ thể như thế nào…
Chúng ta thấy gần đây có những việc nảy sinh liên quan tới người tu sĩ, chuyện tiêu cực có sức lan trong dư luận nhanh và rộng hơn rất nhiều so với việc tốt, là do mạng xã hội. Những sự việc như vậy ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống Tăng đoàn, Giáo hội và Phật giáo nói chung. Nó cứ hết đợt sóng này lại tiếp nối đợt sóng khác.
Chúng ta cần nhìn lại thực trạng, có những cách làm căn cơ hơn, bên cạnh việc tuyên truyền, hướng dẫn kỹ năng để nâng cao ý thức khi sử dụng, tham gia mạng xã hội, cần chỉnh đốn thanh quy thiền môn, quy định oai nghi của người xuất gia cả trên không gian ảo – mạng xã hội.
Nguyện mong các bậc lãnh đạo Giáo hội, chư vị giáo phẩm trách nhiệm các tự viện nghĩ về điều này và có những việc làm gương; tôi cũng mong các vị xuất gia trẻ ý thức trong những biểu hiện oai nghi của người xuất gia, lời nói và cử chỉ, ứng xử của mình nó không chỉ là của cá nhân, mà còn tác hại tới hình ảnh chung của đoàn thể xuất gia, thận trọng đừng để vô tình hoặc mất tỉnh giác mà làm phương hại tới tôn giáo của mình”.
HT.Thích Minh Thông
Phó Trưởng ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa,
Hiệu trưởng Trường TCPH Khánh Hòa